Thiết kế và chế tạo HMAS Canberra (D33)

Chế tạo

Vào năm 1924, Chính phủ Australia đặt mua hai tàu tuần dương thuộc lớp Kent để thay thế cho các tàu tuần dương hạng nhẹ đã cũ HMAS SydneyHMAS Melbourne.[3] Những chiếc này được đặt tên HMAS Australia và HMAS Canberra, cả hai đều được chế tạo bởi hãng John Brown & Company tại xưởng đóng tàu của họ ở Clydebank, Scotland.[3]

Canberra được đặt lườn vào ngày 9 tháng 9 năm 1925.[4] Với ký hiệu của ụ tàu là 513, Canberra được hạ thủy vào ngày 31 tháng 5 năm 1927 bởi Công chúa Mary.[4][5] Nó hoàn tất vào ngày 10 tháng 7 năm 1928, một ngày sau khi được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Hoàng gia Australia.[4] Việc chế tạo Canberra tốn kém khoảng hai triệu Bảng Australia.[4]

Thiết kế

Là một tàu tuần dương được chế tạo theo kiểu lớp phụ Kent thuộc thiết kế của lớp County, Canberra có chiều dài 179,8 m (590 ft) ở mực nước và dài 192 m (630 ft) tối đa, với một mạn thuyền rộng 20,8 m (68 ft 3 in) và tầm nước tối đa 6,5 m (21 ft 4 in).[6] Nó có trọng lượng rẽ nước 9.850 tấn lúc rỗng, và 10.000 tấn tiêu chuẩn.[6] Lớp phụ Kent được chế tạo để thích ứng với những giới hạm của Hiệp ước Hải quân Washington, với một sự giảm bớt vũ khí và sự bảo vệ so với lớp gốc County.[3]

Canberra được vận hành bởi tám nồi hơi Yarrow, cung cấp hơi nước cho bốn turbine hộp số Brown-Curtis để có được công suất 80.000 mã lực (59,7 MW) dẫn động bốn trục chân vịt.[4] Chiếc tàu tuần dương có thể đạt được tốc độ 58 km/h (31,5 knot), và duy trì tốc độ này trong 5.300 km (2.870 hải lý); mặc dù nó có thể di chuyển đến 24.400 km (13.200 hải lý) ở tốc độ đường trường tiêu chuẩn 22 km/h (12 knot) hiệu quả hơn.[4]

Trước Thế Chiến II, thủy thủ đoàn thông thường của nó là 690 người (49 sĩ quan, 641 thủy thủ); và con số này tăng lên 710 khi nó hoạt động như một soái hạm.[4] Trong hoạt động thời chiến, số lượng phát triển lên 751 người (61 sĩ quan, 690 thủy thủ), vào lúc nó bị mất, có 819 người trên tàu.[4]

Vũ khí trang bị

Dàn pháo chính của Canberra bao gồm tám khẩu hải pháo BL 203 mm (8 inch) Mark VIII trên bốn tháp pháo nòng đôi.[4] Dàn pháo hạng hai bao gồm bốn khẩu hải pháo QF 102 mm (4 inch) Mark V góc cao (được tăng gấp đôi lên tám khẩu trên bốn bệ nòng đôi trong Thế Chiến II), và bốn hải pháo QF 2 pounder "pom-pom".[4] Một hỗn hợp các dàn súng máy 0,303 inch được dùng để phòng thủ gần: thoạt tiên bao gồm bốn súng máy Vickers và mười hai súng máy Lewis, mặc dù sau đó bốn súng máy Lewis được tháo dỡ.[4] Bốn khẩu pháo QF 3 pounder Hotchkiss được sử dụng làm pháo chào,[4] và hai bộ ống phóng ngư lôi 533 mm (21 inch) bốn nòng được trang bị.[4] Mìn sâu cũng được mang theo để chống tàu ngầm và được bố trí trên các đường ray phía đuôi tàu.[4]

Chiếc tàu tuần dương mang theo một thủy phi cơ; ban đầu là một chiếc Supermarine Seagull III, nhưng sau đó được nâng cấp lên chiếc Supermarine Walrus.[3]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: HMAS Canberra (D33) http://www.awm.gov.au/atwar/remembering1942/canber... http://www.awm.gov.au/histories/second_world_war/v... http://www.navyhistory.org.au/hmas-shropshire-%E2%... http://history.navy.mil/photos/sh-fornv/austral/au... http://www.history.navy.mil/photos/sh-fornv/austra... //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... //www.worldcat.org/oclc/32234178 //www.worldcat.org/oclc/46829686 //www.worldcat.org/oclc/848228 http://www.clydesite.co.uk/clydebuilt/viewship.asp...